Ưu và nhược điểm Chữ Nôm

Nhược điểm

Nhìn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán (do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại) nên khó học, khó nhớ hơn cả chữ Hán vốn cũng đã khó nhớ. Để đọc viết được chữ Nôm đòi hỏi phải có vốn hiểu biết chữ Hán nhất định. Hệ chữ Nôm cũng không có sự thống nhất: có thể có nhiều chữ dùng để ghi cùng một âm tiết, hoặc ngược lại, một chữ có thể có nhiều cách đọc khác nhau. Tình trạng này còn do "tam sao thất bản", phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng không cao (chữ bị nhòe, mất nét). Do đó có người nói "chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán", "nôm na là cha mách qué".

Về mặt ngữ âm thì số âm tiết của tiếng Việt nhiều hơn số âm tiết của âm Hán Việt của chữ Hán nên người viết phải dùng dấu nháy [»] hoặc chữ khẩu [口] đặt cạnh một chữ để biểu thị những chữ cận âm. Người đọc vì vậy phải giỏi mà đoán cho trúng âm, khiến chữ Nôm khá khó đọc.

Ưu điểm

Tuy không tiện dụng như chữ Quốc ngữ, chữ Nôm cũng có ưu điểm của riêng nó:

Cũng giống như chữ Hán, chữ Nôm là chữ biểu ý, có khả năng biểu nghĩa rõ ràng hơn, tránh đồng âm khác nghĩa và hiểu sai nghĩa do chữ Quốc ngữ chỉ có thể biểu âm (đặc biệt là tên người Việt hay tên địa danh ở Việt Nam). Ví dụ: "năm" viết theo chữ Nôm có hai chữ là 𢆥 ("năm" trong "ngày tháng năm", chữ 南 (nam) gợi âm, chữ 年 (niên) gợi nghĩa) và 𠄼 ("năm" trong "số 5", chữ 南 (nam) gợi âm, chữ 五 (ngũ) gợi nghĩa).

Khả năng viết dọc lẫn viết ngang tốt và thẳng đều. Ví dụ bên dưới là 4 câu thơ trong Truyện Kiều, có thể thấy chữ Nôm được xếp thẳng hàng hơn và đẹp hơn (do mỗi chữ Nôm đều có kích thước vuông giống nhau), trong khi chữ Quốc ngữ bị lệch hàng (do kích cỡ và số lượng ký tự của mỗi từ là khác nhau). Ứng với khi tự tay viết trên giấy thì việc căn lề của chữ Nôm là dễ dàng hơn nhiều so với chữ Quốc ngữ. Khi viết dọc, chữ Nôm cũng không cần phải xoay chữ để viết, còn chữ Quốc ngữ thì nếu có từ nhiều ký tự như "nghiêng", việc buộc phải xoay chữ hay tách ký tự là có thể xảy ra. Điều này mang lợi ích cho chữ Nôm ở việc có thể viết dọc ở không gian bề ngang cực hẹp như lề vở hay kẹp dọc vở mà không cần lo sẽ có chữ bị quá kích thước dự tính như chữ Quốc ngữ.

Chữ Nôm
Hoành thư
(Viết ngang kiểu hiện đại,
chiều từ trái sang phải)
頭弄𠄩婀素娥
翠翹羅姊㛪羅翠雲
梅骨格雪精神
每𠊚沒𨤔𨑮分援𨑮
Tung thư
(Viết dọc kiểu truyền thống,
hàng xếp từ phải sang trái)
頭弄𠄩婀素娥
翠翹羅姊㛪羅翠雲
梅骨格雪精神
每𠊚沒𨤔𨑮分援𨑮
Chữ Quốc ngữ
Bình thường
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Nếu phải viết dọc
Tách chữXoay chữ
Đầu
lòng
hai

tố
nga
Thúy
Kiều

chị
em

Thúy
Vân
Mai
cốt
cách
tuyết
tinh
thần
Mỗi
người
một
vẻ
mười
phân
vẹn
mười
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

Vấn đề lưu trữ vào máy tính của chữ Nôm cũng đã được giải quyết một phần nhờ có bộ mã Unicode, và cũng nhờ Unicode cung cấp cho mỗi chữ Nôm có một mã số tương tự như một ký tự latinh, với cùng một nội dung thì viết bằng chữ Nôm dùng ít ký tự hơn và tốn ít bộ nhớ để lưu văn bản hơn so với viết bằng chữ Quốc ngữ. Như trong 4 câu thơ của Truyện Kiều ở trên, viết bằng chữ Nôm chỉ tốn 28 ký tự không cần khoảng trống, còn viết bằng chữ Quốc ngữ tốn 118 ký tự bao gồm cả khoảng trống (đó là chưa kể có những câu có nhiều ký tự hơn). Do vậy chắc chắc viết toàn bộ Truyện Kiều bằng chữ Nôm trong máy tính sẽ tốn ít bộ nhớ lưu trữ hơn viết bằng chữ Quốc ngữ.